I. Tây Âu từ năm 1945 đến năm 1950
- Chiến tranh thế giới thứ II đã để lại cho các nước Tây Âu nhiều hậu quả nặng nề.
+ Nhiều thành phố, nhà máy, bến cảng, khu công nghiệp, đường giao thông bị tàn phá. Hàng triệu người chết, mất tích hoặc bị tàn phế.
+ Ở Pháp, năm 1945 sản xuất công nghiệp chỉ bằng 38% và nông nghiệp chỉ bằng 50% so với năm 1938; Italia tổn thất khoảng 1/3 của cải quốc gia.
- Tuy nhiên, với sự cố gắng của từng nước và viện trợ của Mĩ trong khuôn khổ “Kế hoạch Mácsan”, đến khoảng năm 1950, kinh tế các nước tư bản Tây Âu đã cơ bản phục hồi, đạt mức trước chiến tranh.
- Về chính trị:
+ Củng cố chính quyền của giai cấp tư sản.
+ Ổn định tình hình chính trị - xã hội.
+ Hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế.
+ Liên minh chặt chẽ với Mĩ.
+ Tìm cách trở lại các thuộc địa cũ của mình.
- Tóm lại, từ 1945 đến 1950, với sự viện trợ của Mĩ, các nước tư bản Tây Âu đã cơ bản ổn định và phục hồi về mọi mặt, trở thành lực lượng đối trọng với khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu vừa mới hình thành.
II. Tây Âu từ năm 1950 đến năm 1973
* Về kinh tế:
- Từ thập niên 50 đến đầu những năm 70, nền kinh tế của các nước tư bản chủ yếu ở Tây Âu đều có sự phát triển nhanh.
- Từ đầu thập niên 70 trở đi, Tây Âu đã trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới (cùng với Mĩ và Nhật Bản). Các nước tư bản chủ yếu ở Tây Âu như Anh, Pháp, CHLB Đức, Italia, Thuỵ Điển, Phần Lan v.v... đều có nền khoa học kỹ thuật phát triển cao, hiện đại.
- Sở dĩ các nước Tây Âu phát triển kinh tế nhanh như vậy là do một số yếu tố sau:
+ Các nước này đã phát triển và áp dụng thành công các thành tựu của cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại.
+ Nhà nước đóng vai trò lớn trong việc quản lí, điều tiết, thúc đẩy nền kinh tế.
+ Các nước tư bản ở Tây Âu đã tận dụng tốt các cơ hội bên ngoài như nguồn viện trợ của Mĩ, tranh thủ được giá nguyên liệu rẻ từ các nước thuộc thế giới thứ ba, hợp tác có hiệu quả trong khuôn khổ của Cộng đồng châu Âu (EC) v.v...
+ Sự nỗ lực phấn đấu của chính người dân lao động ở các nước này.
* Về chính trị, đánh dấu sự tiếp tục phát triển của nền dân chủ tư sản ở Tây Âu, đồng thời cũng ghi nhận những biến động đáng chú ý trên chính trường nhiều nước trong khu vực.
* Về mặt đối ngoại, trong khuôn khổ của chiến tranh lạnh và trật tự thế giới hai cực Ianta, từ năm 1950 đến năm 1973, nhiều nước tư bản Tây Âu một mặt vẫn tiếp tục chính sách liên minh chặt chẽ với Mĩ, mặt khác đã nỗ lực mở rộng hơn nữa quan hệ đối ngoại.
III. Tây Âu từ năm 1973 đến năm 1991
* Về kinh tế:
- Do tác động của cuộc khủng hoảng năng lượng thế giới, cũng như Mĩ và Nhật Bản, từ 1973 nhiều nước tư bản chủ yếu ở Tây Âu bị lâm vào khủng hoảng và suy thoái hoặc phát triển không ổn định kéo dài đến đầu thập niên 90.
- Tuy vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới, nhưng kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu gặp không ít khó khăn. Sự phát triển thường diễn ra xen kẽ với khủng hoảng, suy thoái và lạm phát, thất nghiệp.
- Tây Âu luôn gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt từ phía Mĩ, Nhật Bản và các nước công nghiệp mới (NICs). Quá trình “nhất thể hoá” Tây Âu trong khuôn khổ Cộng đồng châu Âu (EC) vẫn còn nhiều khó khăn và trở ngại.
* Về chính trị - xã hội:
- Bên cạnh sự phát triển, nền dân chủ tư sản Tây Âu vẫn tiếp tục bộc lộ những mặt trái của nó. Tình trạng phân hoá giàu nghèo ngày càng lớn.
- Các tệ nạn xã hội vẫn thường xuyên xảy ra, trong đó tội phạm maphia là rất điển hình ở Italia.
* Về đối ngoại:
- Tháng 11 - 1972, việc kí kết hiệp định về những cơ sở của quan hệ giữa Cộng hoà Liên bang Đức và Cộng hoà Dân chủ Đức làm cho tình hình Tây Âu có dịu đi.
- Tiếp đó về việc các nước Tây Âu tham gia Định ước Henxinki về an ninh và hợp tác châu Âu (1975).
- Tháng 11 - 1989, bức tường Béclin bị phá bỏ, sau đó không lâu, nước Đức đã tái thông nhất (03 - 10 - 1990).
IV. Tây âu từ năm 1991 đến năm 2000
* Về kinh tế:
- Bước vào đầu thập kỉ 90, nền kinh tế nhiều nước Tây Âu đã trải qua một đợt suy thoái ngắn.
- Từ khoảng 1994 trở đi kinh tế Tây Âu đã bắt đầu phục hồi và phát triển trở lại.
- Tây Âu trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính thế giới.
* Về chính trị và dối ngoại:
- Về chính trị đối nội, các nước Tây Âu trong thập niên cuối cùng của thế kỉ XX cơ bản là ổn định.
- Về đối ngoại, có sự điều chỉnh quan trọng trong bối cảnh chiến tranh lạnh đã kết thúc, trật tự thế giới hai cực Ianta tan rã. Cụ thể:
+ Anh vẫn duy trì liên minh chặt chẽ với Mĩ.
+ Pháp và Đức trở thành những đối trọng với Mĩ trong nhiều vấn đề quốc tế quan trọng.
+ Các nước Tây Âu đều chú ý mở rộng quan hệ không chỉ với các nước tư bản phát triển khác mà còn cả với các nước đang phát triển ở Á, Phi, Mĩ Latinh cũng như với các nước Đông Âu và Liên Xô cũ.
- Từ sau ngày 11- 9 - 2001, những vụ khủng bố của các lực lượng Hồi giáo cực đoan luôn đe doạ nền an ninh của nhiều nước Tây Âu.
V. Liên minh châu Âu (EU)
- Ngày 18 - 4 - 1951, sáu nước Tây Âu (gồm Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Lúcxămbua) đã thành lập “Cộng đồng than - thép châu Âu”.
- Ngày 25 - 3 - 1957 sáu nước này lại kí Hiệp ước Rôma, thành lập “Cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu” và “Cộng đồng kinh tế châu Âu” (EEC).
- Đến ngày 01 - 7 - 1967, ba tổ chức trên đã được hợp nhất lại thành “Cộng đồng châu Âu” (EC), và tháng 12 - 1991 các nước thành viên EC đã kí tại Hà Lan bản Hiệp ước Maxtrích (Hà Lan), có hiệu lực từ 01 - 01 - 1993, đổi tên thành Liên minh châu Âu (EU).
- Trong tháng 6 - 1979, đã diễn ra cuộc bầu cử Nghị viện châu Âu đầu tiên. Tháng 3 - 1995, 7 nước EU huỷ bỏ việc kiểm soát đối với việc đi lại của công dân các nước này qua biên giới của nhau. Ngày 1 - 1 - 1999, đồng tiền chung châu Âu (EURO) đã được chính thức đưa vào sử dụng ở 11 nước EU.
- Như vậy, đến cuối thập kỉ 90, EU đã trở thành tổ chức liên kết chính trị - kinh tế vào hàng lớn nhất hành tinh, chiếm khoảng hơn ¼ năng lực sản xuất của toàn thế giới.