+ Phân tích thời cơ và chủ trương chiến lược của ta đối với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1979?
Ký Hiệp định Pari là một thắng lợi to lớn của ta, nhưng chưa trọn vẹn. Mỹ đã cút nhưng Ngụy chưa nhào. Sau hai năm chuẩn bị, tính đến cuối năm 1974, đầu năm 1975, tương quan lực lượng giữa ta và dịch đã thay đổi nhiều. Ta đã mạnh hơn địch cả về thế và lực. Những điều kiện bên trong và bên ngoài kết hợp nhuần nhuyễn với nhau tạo cho ta thời cơ chiến lược mới tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.
+ Trước thời cơ chiến lược chủ trương của Đảng ta như thế nào?
Trước thời cơ chiến lược mới. Đảng ta chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 để giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Chủ trương của Đảng được thể hiện bằng một kế hoạch cụ thể về giải phóng hoàn toàn miền Nam trong 2 năm (1975 - 1976), sau rút xuống 1 năm (1975) và cuối cùng là giải phóng hoàn toàn miền Nam thật nhanh: trước mùa mưa năm 1975.
- Nhận xét: Chủ trương trên đây của Đảng ta là đúng đắn, linh hoạt và sáng tạo, có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
+ Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 dã diễn ra như thế nào?
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 gồm 3 chiến dịch lớn:
a. Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4/3 đến 21/3/1975): Ta tiêu dệt và làm tan rã toàn bộ quân đoàn 2 của Ngụy, giải phóng quân khu 2 của chúng bao gồm toàn bộ Tây Nguyên và một số tỉnh ven biển đồng bằng miền Trung. Ta giải phóng thêm được 60 vạn dân, phần lớn là đồng bào các dân tộc ít người.
b. Chiến dịch Huế Đà Nẵng (từ 22/3 đến 29/3/1975): Ta dã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân đoàn 1 của Ngụy, giải phóng toàn bộ quân khu I của chúng. Cùng vài chiến thắng Tây Nguyên, chiến thắng Huế, Đà Nẵng đã làm thay đổi hẳn lực lượng hoàn toàn có lợi cho ta, tạo điều kiện cho ta tập trung lực lượng áp đảo trong trận quyết chiến cuối cùng.
c. Chiến dịch Hồ Chi Minh (từ 26/4 đến 30/4/1975):
Ngày 26/4 chiến dịch lịch sử giải phóng Sài Gòn – Gia Định nang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Ta dùng một bộ phận quân chủ lực tiến công tiêu diệt một số và bao vây 5 sư đoàn Ngụy ở tuyến phòng thủ chủ yếu bao quanh Sài Gòn. Bộ phận đặc công, tự vệ thành, du kích mật cùng một bộ phận quần chúng nổi dậy đánh chiếm các cầu vào Sài Gòn trước và làm nhiệm vụ dẫn đường tạo điểu kiện cho 5 binh đoàn chủ lực của ta từ 5 hướng (Đông, Đông Bắc, Tây, Tây Bắc, Tây Nam) tiến đánh Sài Gòn. 11 giờ 30 phút ngày 33/4/1975 cờ cách mạng cắm trên nóc phủ tổng thống Ngụy quyền. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Các tỉnh còn lại ở Nam Bộ, kể cả các hòn đảo ở ngoài khơi, đến ngày 2/5/1975 đều đã được giải phóng.
Trước đó, trong tháng 4, quân ta đã giải phóng các đảo dọc bờ biển Trung Trung Bộ và Nam Trung Bộ. Trong quần đảo Trường Sa ta giải phóng các đảo sau từ tay Ngụy: đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, An Bàng, Trường Sa.
Như vậy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với 3 chiến dịch đã kết thúc sau gần 2 tháng bằng thắng lợi hoàn toàn. Trong kết quả đó bộ máy Ngụy quân gồm hơn 1 triệu tên và bộ máy Ngụy quyển đã bị đập tan. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta toàn thắng.
Việc Mỹ thất bại ở miền Nam Việt Nam là “một điều đau đớn nhưng không có gì đáng ngạc nhiên... thật là một điều đáng buồn nhưng đó là điều không thể tránh khỏi” - Oátmôlen - Thời báo Nữu Ước ngày 12/5/1975. Còn Kítxinhgiơ đánh giá “sự sụp đổ” ở Đông Dương vừa là bước thụt lùi, vừa là tấn thảm kịch đối với Mỹ” (Tin Mỹ và thế giới ngày 22/5/1975).