I. Tình hình thế giới và trong nước
1. Tình hình thế giới
- Từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX, bọn phát xít cầm quyền một số nước như Đức, Italia, Nhật Bản ráo riết chạy đua vũ trang, chuẩn bị chiến tranh thế giới.
- Tháng 7 - 1935, Quốc tế Cộng sản tiến hành Đại hội lần thứ VII tại Mátxcơva (Liên Xô). Đại hội xác định kẻ thù là chủ nghĩa phát xít và nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân là chống chủ nghĩa phát xít nhằm mục tiêu đấu tranh giành dân chủ, bảo vệ hoà bình, thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi.
- Tháng 6 - 1936, Mặt trận nhân dân lên cầm quyền ở Pháp. Chính phủ mới đã cho thi hành một số cải cách tiến bộ ở thuộc địa.
2. Tình hình trong nước
- Về chính trị:
+ Chính phủ Pháp cử phái viên sang điều tra tình hình Đông Dương.
+ Ở Việt Nam có nhiều đảng phái chính trị hoạt động. Trong đó Đảng Cộng sản Đông Dương là đảng mạnh nhất, có tổ chức chặt chẽ và có chủ trương rõ ràng.
- Về kinh tế:
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương tập trung đầu tư, khai thác thuộc địa để bù đắp sự thiếu hụt cho kinh tế “chính quốc”.
+ Về nông nghiệp, chính sách của chính quyền thực dân tạo mọi điều kiện cho tư bản Pháp chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, làm cho 2/3 nông dân không có ruộng hoặc chỉ có ít ruộng.
+ Về công nghiệp, ngành khai thác mỏ được đẩy mạnh.
+ Về thương nghiệp, chính quyền thực dân độc quyền bán thuốc phiện, rượu, muối, thu được lợi nhuận rất cao. Hàng xuất khẩu chủ yếu là khoáng sản, nông sản. Nhập cảng máy móc thiết bị và hàng công nghiệp tiêu dùng.
Nhìn chung, những năm 1936 - 1939 là thời kì phục hồi và phát triển nền kinh tế ở Việt Nam, nhưng chỉ tập trung vào một số ngành đáp ứng có nhu cầu chiến tranh. Nền kinh tế Việt Nam vẫn lạc hậu và lệ thuộc kinh tế Pháp.
- Về xã hội: Đời sống các tầng lớp nhân dân vẫn gặp nhiều khó khăn do chính sách tăng thuế của chính quyền thuộc địa.
+ Số công nhân thất nghiệp còn nhiều. Ngay cả những người có việc làm, mức lương vẫn không bằng thời kì trước khủng hoảng.
+ Nông dân không đủ ruộng cày. Họ còn chịu mức địa tô cao và nhiều thủ đoạn bóc lột khác của địa chủ cường hào, những hủ tục cưới cheo, đình đám...
+ Tư sản dân tộc có ít vốn nên chỉ lập được những công ti nhỏ, phải chịu thuế cao, bị tư bản Pháp chèn ép.
+ Nhiều người trong giới tiểu tư sản trí thức thất nghiệp. Công chức nhận được mức lương thấp. Các tầng lớp lao động khác phải chịu thuế khoá nặng nề, sinh hoạt đắt đỏ.
Đời sống đa số nhân dân khó khăn, cực khổ. Chính vì thế họ hăng hái tham gia phong trào đấu tranh đòi tự do, cơm áo dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
II. Phong trào dân chủ 1936 - 1939
1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 7 - 1936
- Tháng 7 - 1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong chủ trì họp ở Thượng Hải (Trung Quốc). Hội nghị dựa theo Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản, căn cứ vào tình hình cụ thể ở Việt Nam để định ra đường lối và phương pháp đấu tranh.
- Hội nghị xác định: nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương là chống đế quốc và phong kiến; nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống nguy cơ chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo và hoà bình.
- Phương pháp đấu tranh là kết hợp các hình thức công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp.
- Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương.
- Đảng Cộng sản Đông Dương kêu gọi các đảng phái chính trị, các tổ chức quần chúng và nhân dân Đông Dương hành động, đấu tranh cho dân chủ. Phong trào đấu tranh quần chúng lan rộng trong cả nước.
- Tiếp đó, Hội nghị Trung ương các năm 1937 và 1938 bổ sung và phát triển nội dung cơ bản của Nghị quyết hội nghị Trung ương tháng 7 - 1936. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 3 - 1938, Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương đổi thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận dân chủ Đông Dương.
2. Những phong trào đấu tranh tiêu biểu
a) Đấu tranh đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ
- Năm 1936, được tin Quốc hội Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình Đông Dương, Đảng chủ trương phát động và tổ chức các tầng lớp nhân dân hội họp, thảo ra bản “dân nguyện” để gửi tới phái đoàn, tiến tới triệu tập Đông Dương Đại hội vào tháng 8 - 1936.
- Ngày 15 - 9 - 1936, chính phủ thực dân ra lệnh giải tán uỷ ban hành động, cấm hội họp. Phong trào Đông Dương Đại hội đạt được một số mục đích:
+ Đông đảo quần chúng giác ngộ, đoàn kết đấu tranh đòi quyền sống.
+ Đảng Cộng sản Đông Dương thu được một số kinh nghiệm về phát động và lãnh đạo phong trào đấu tranh công khai, hợp pháp.
- Đầu năm 1937, phái viên của Chính phủ Pháp G. Gôda sang điều tra tình hình Đông Dương. Lợi dụng sự kiện này, Đảng tổ chức quần chúng mít tinh “đón rước”, nhưng thực chất là biểu dương lực lượng để đòi yêu sách về dân sinh, dân chủ.
- Trong những năm 1937 - 1939, các cuộc mít tinh, biểu tình đòi quyền sống của các tầng lớp nhân dân vần tiếp tục diễn ra. Đặc biệt là cuộc đấu tranh nhân ngày 01 - 5 - 1938. Các cuộc mít tinh được tổ chức công khai ở Hà Nội và nhiều nơi khác, thu hút đông đảo quần chúng tham gia
b) Đấu tranh nghị trường
- Trong cuộc bầu cử vào Viện Dân biểu Trung Kì (8 - 1937), Viện dân biểu Bắc Kì, Hội đồng Kinh tế lí tài Đông Dương (1939) và Hội đồng Quản hạt Nam Kì (1939), Đảng vận động đưa người của Mặt trận Dân chủ Đông Dương ra ứng cử.
- Mục đích của đấu tranh nghị trường:
+ Mở rộng lực lượng của Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
+ Vạch trần chính sách phản động của bọn thực dân Pháp và tay sai.
+ Bênh vực quyền lợi của nhân dân lao động.
c) Đấu tranh trên lĩnh vực báo chí
- Đảng đã xuất bản nhiều tờ báo công khai: Tiền phong, Dân chúng, Lao động, Tin tức...
- Báo chí cách mạng trở thành mũi xung kích trong những phong trào lớn của cuộc vận động dân chủ, dân sinh thời kì 1936 - 1939.
- Trong thời gian này, nhiều sách chính trị - lí luận, các tác phẩm hiện thực phê phán ra đời.
- Cuộc đấu tranh của Đảng trên lĩnh vực báo chí trong những năm 1936 - 1939 đã thu được kết quả to lớn, trước hết về văn hoá - tư tưởng. Đông đảo các tầng lớp nhân dân được giác ngộ về con đương cách mạng của Đảng.
3. Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của phong trào dân chủ 1936 - 1939
* Ý nghĩa lịch sử
- Cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 là một phong trào quần chúng rộng lớn, có tổ chức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, đã buộc chính quyền của thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách cụ thể, trước mắt về dân sinh, dân chủ.
- Qua phong trào, quần chúng được giác ngộ về chính trị, đã tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất, trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; cán bộ được tập hợp thành đội ngũ đông đảo và trưởng thành.
* Bài học kinh nghiệm
Trong quá trình đấu tranh, Đảng Cộng sản Đông Dương tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm:
- Bài học về xây dựng Mặt trận thống nhất.
- Bài học về tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp.
- Bài học về đấu tranh tư tưởng trong nội bộ Đảng và với đảng phái chính trị phản động.
- Đồng thời, Đảng thấy được những hạn chế của mình trong công tác mặt trận, vấn đề dân tộc...
Có thể nói, phong trào dân chủ 1936 - 1939 như cuộc diễn tập, chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.