I. Những chuyển biến mới về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất
- Các nước đế quốc thắng trận đã cùng nhau phân chia lại thế giới, thiết lập một trật tự hoà bình, an ninh mới.
- Hậu quả của chiến tranh, khủng hoảng kinh tế ở các nước tư bản chủ nghĩa và ảnh hưởng của cuộc cách mạng tháng mười Nga (tháng 11 - 1917).
- Giai cấp công nhân các nước đã thành lập những tổ chức riêng của mình. Các đảng cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa, các nước thuộc địa và nửa thuộc địa lần lượt ra đời.
- Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ ba) được thành lập ở Mátxcơva (tháng 3 - 1919) đảm nhận sứ mệnh tập hợp và lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước trên thế giới.
Các điều kiện khách quan đó của thế giới đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam.
II. Chính sách thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam
1. Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp
a. Nguyên nhân:
- Chiến tranh thế giới đã làm cho nền kinh tế của Pháp bị tổn thất nặng nề.
- Để hàn gắn và khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh, nhà cầm quyền Pháp vừa tìm cách thúc đẩy sản xuất trong nước, vừa tăng cường đầu tư khai thác thuộc địa, trước hết là các nước ở Đông Dương.
b. Quá trình khai thác:
- Vốn đầu tư: Chỉ trong vòng 6 năm (1924 - 1929), số vốn đầu tư vào Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam lên đến 4 tỉ phrăng.
- Các lĩnh vực khai thác:
+ Nông nghiệp, Pháp đầu tư vốn nhiều nhất đế mở các đồn điền cao su.
+ Công nghiệp, tư bản Pháp chú trọng đầu tư vào khai thác mỏ, trước hết là mỏ than.
+ Thương nghiệp, trước hết là ngoại thương có sự tăng tiến hơn trước. Quan hệ giao lưu buôn bán nội địa cũng được đẩy mạnh.
+ Giao thông vận tải phát triển nhằm phục vụ công cuộc khai thác và vận chuyển nguyên vật liệu, lưu thông hàng hoá trong và ngoài nước.
+ Thi hành các biện pháp tăng thuế nặng, nên ngân sách Đông Dương thu được năm 1930 tăng gấp 3 lần so với năm 1912.
2. Chính sách chính trị, văn hoá, giáo dục của thực dân Pháp
a. Về chính trị:
- Mọi quyền hành nắm trong tay người Pháp.
- Thi hành một vài cải cách chính trị - hành chính để đối phó với những biến động đang diễn ra ở Đông Dương, như đưa thêm số người Việt vào trong các phòng Thương mại và Canh nông ở các thành phố lớn.
- Lập Viện dân biểu Trung Kì (tháng 02 - 1926), Viện dân biểu Bắc Kì (tháng 4 - 1926).
b. Về Văn hoá, giáo dục:
- Hệ thông giáo dục được mở rộng gồm các cấp tiểu học, trung học, cao đẳng và đại học. Mô hình giáo dục có tính hiện đại đang hình thành ở Đông Dương.
- Cơ sở xuất bản, in ấn xuất hiện ngày càng nhiều với hàng chục tờ báo, tạp chí chữ Pháp và chữ Quốc ngữ.
- Nhà cầm quyền Pháp sử dụng báo chí, văn hoá... để phục vụ công cuộc khai thác và thống trị của chúng.
- Các trào lưu tư tưởng, khoa học - kĩ thuật phương Tây có điều kiện tràn vào Việt Nam. Các yếu tô văn hoá truyền thống, văn hoá mới tiến bộ và ngoại lai nô dịch cùng tồn tại, đan xen, đấu tranh với nhau.
3. Những chuyển biến mới về kinh tế và giai cấp xã hội ở Việt Nam
a. Chuyển biến về kinh tế:
- Qua cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, nền kinh tế của tư bản thực dân Pháp ở Đông Dương có bước phát triển mới. Thực dân Pháp có đầu tư kĩ thuật và nhân lực, song rất hạn chế. Cơ cấu kinh tế Việt Nam vẫn mất cân đối.
- Sự chuyển biến ít nhiều về kinh tế có tính chất cục bộ ở một số vùng, còn lại phổ biến vẫn trong tình trạng lạc hậu, nghèo nàn. Kinh tế Đông Dương vẫn bị cột chặt vào kinh tế Pháp và Đông Dương vẫn là thị trường độc chiếm của tư bản Pháp.
b. Chuyển biên về giai cấp xã hội:
Do tác động của chính sách khai thác thuộc địa trên quy mô lớn và chính sách thống trị của thực dàn Pháp, cơ cấu giai cấp xã hội ở Việt Nam có những biến chuyến mới.
- Giai cấp địa chủ bị phân hoá thành ba bộ phận khá rõ rệt: tiểu địa chủ, trung địa chủ và đại địa chủ. Một bộ phận đại địa chủ làm tay sai cho Pháp, một bộ phận tiểu và trung địa chủ có tinh thần dân tộc chống thực dân Pháp và tay sai.
- Giai cấp nông dân bị đế quốc, phong kiên thống trị, bị tước đoạt ruộng đất, bần cùng hoá, không có lối thoát. Mâu thuẫn giữa nông dân Việt Nam với đế quốc Pháp và phong kiến tay sai hết sức gay gắt. Nông dân là lực lượng cách mạng to lớn của dân tộc.
- Giai cấp tiểu tư sản phát triển nhanh về số lượng. Họ có tinh thần dàn tộc, chống thực dân Pháp và tay sai. Đặc biệt bộ phận học sinh, sinh viên, trí thức rất nhạy cảm với thời cuộc và tha thiết canh tân đất nước, nên rất hăng hái tham gia vào các cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc.
- Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Vừa mới ra đời đã bị tư sản Pháp chèn ép, nên số lượng ít, kinh tế yếu. Tư sản Việt Nam có khuynh hướng kinh doanh độc lập nên ít nhiều có khuynh hướng dân tộc và dân chủ.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng đông đảo. Đến năm 1929, trong các doanh nghiệp của người Pháp ở Đông Dương, chủ yếu là ở Việt Nam, giai cấp công nhân có trên 22 vạn người. Giai cấp công nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức bóc lột của đế quốc thực dân, phong kiến và tư sản bản xứ, chủ yếu là bọn đế quốc thực dân. Họ có quan hệ gắn bó với giai cấp nông dân, có truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc, sớm chịu ảnh hưởng của trào lưu cách mạng vô sản trên thế giới nên đã nhanh chóng vươn lên để trở thành một động lực mạnh mẽ của phong trào dân tộc theo khuynh hướng cách mạng tiên tiến của thời đại.
4. Những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam
- Mâu thuẫn dân tộc, giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp.
- Mâu thuẫn giai cấp, giũa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến.
III. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925
1. Hoạt động của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và một số người Việt Nam sống ở nước ngoài.
a. Hoạt động của Phan Bội Châu
- Sau những năm bốn ba hoạt động ở Nhật Bản và Trung Quốc không thành, Phan Bội Châu bị bọn quân phiệt Trung Quốc bắt giam từ năm 1913, đến năm 1917 mới được thả tự do.
- Dưới ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của nước Nga Xô viết đã bắt đầu đến với ông như một ánh sáng mới.
- Tháng 6 - 1925, trong khi chưa thể thay đổi được tổ chức, thay đổi phương lược đấu tranh thích hợp với biến chuyển mới của đất nước và thời đại thì Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt tại Thượng Hải (Trung Quốc) đưa về nước, bị kết án tù rồi đưa về an trí ở Huế. Từ đó trở đi, Phan Bội Châu không thể tiến theo nhịp sống đấu tranh mới của dân tộc.
b. Hoạt động của Phan Châu Trinh
- Vào đầu năm 1922, Phan Châu Trinh đến Mácxây. Nhân dịp vua Khải Định sang dự cuộc triển lãm thuộc địa khuyếch trương cái gọi là “công lao khai hoá” của Pháp, Phan Châu Trinh viết Thất điều thư vạch ra 7 tội đáng chém của Khải Định. Phan Châu Trinh còn tổ chức diễn thuyết lên án chế độ quân chủ và quan trường ở Việt Nam, tiếp tục hô hào “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”
- Tháng 6 - 1925, Phan Châu Trinh về nước. Ông tiếp tục hoạt động, đả phá chế độ quân chủ, đề cao dân quyền. Nhiều tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên rất mến mộ và hưởng ứng hoạt động của Phan Cháu Trinh.
c. Hoạt động của một số người Việt Nam sống ở nước ngoài
- Sau Chiến tranh thế giới thứ I, nhiều Việt kiều tại Pháp đã tham gia hoạt động yêu nước, chuyển tài liệu, sách báo tiến bộ về nước. Năm 1925, “Hội những người lao động trí óc ở Đông Dương” ra đời.
- Năm 1923, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Công Viễn V..V.. lập ra tổ chức Tâm tâm xã. Ngày 19 - 6 - 1924, Phạm Hồng Thái mưu sát toàn quyền Méclanh ở Sa Diện (Quảng Châu), vụ mưu sát không thành nhưng nó đã nhóm lên ngọn lửa chiến đấu của nhân dân ta.
2. Hoạt động của tư sản, tiểu tư sản và công nhân Việt Nam
a. Hoạt dộng của giai cấp tư sản
- Ngay từ khi mới ra đời, tư sản Việt Nam đã tổ chúc cuộc tẩy chay tư sản Hoa Kiều, vận động người Việt Nam chỉ mua hàng của người Việt Nam.
- Năm 1923, đại chủ và tư sản Việt Nam đấu tranh chống tư bản Pháp độc quyền cảng Sài Gòn, độc quyền xuất cảng lúa gạo Nam Kì.
- Một số tư sản và địa chủ lớn ở Nam Kì (Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long..) lập ra Đảng Lập hiến (1923).
6. Hoạt dộng của tiểu tư sản
- Sau chiến tranh, các tầng lớp tiểu tư sản trí thức (gồm sinh viên, học sinh, viên chức, nhà văn, nhà báo ..V..V..) sôi nổi đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ.
- Một số tổ chức chính trị như Việt Nam nghĩa đoàn, Hội Phục Việt, Đảng Thanh niên ra đời với nhiều hoạt động phong phú sôi động (mít tinh, biểu tình, bãi khoá v.v..). Nhiều tờ báo tiến bộ lần lượt ra đời. Báo tiếng Pháp có các tờ Chuông rè, An Nam trẻ, Người nhà quê; báo tiếng Việt có tờ Hữu thanh, Tiếng dân, Đông Pháp thời báo, Thực nghiệp dân báo… Họ lập ra những nhà xuất bản tiến bộ như Nam đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng thư (Huế)...
- Trong phong trào yêu nước dân chủ công khai hồi đó có một số sự kiện nổi bật là cuộc đấu tranh đòi nhà cầm quyền Pháp thả Phan Bội Châu (1925), các cuộc truy điệu, để tang Phan Châu Trinh (1926).
c. Các cuộc đấu tranh của công nhân
- Những năm đầu sau chiến tranh, các cuộc đấu tranh của công nhân tuy còn lẻ tẻ và tự phát. Ngay từ năm 1920, công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn đã thành lập Công hội (bí mật) do Tôn Đức Thắng đứng đầu.
- Tháng 8 - 1925, thợ máy xưởng Ba Son tại cảng Sài Gòn bãi công, không chịu sửa chữa chiến hạm Misơlê của Pháp trước khi chiến hạm này chở lính sang tham gia đàn áp phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân và thủy thủ Trung Quốc. Cuộc bãi công Ba Son thắng lợi đánh dấu bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam.
3. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc
- Sau hơn 8 năm bôn ba hầu khắp các châu lục trên thế giới, cuối năm 1917 Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp, gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
* Ngày 18 - 6 - 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxai Bản yên sách của nhân dân An Nam. Bản yêu sách đòi chính phủ Pháp và các nước đồng minh thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
- Giữa năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp. Luận cương của Lênin đã giúp Nguyễn Ái Quốc khẳng định muôn cứu nước và giải phóng dân tộc là phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
- Ngày 25 - 12 - 1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tua. Người đã đứng về phía đa số đại biểu bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Nguyễn Ái Quốc trở thành đảng viên cộng sản, đồng thời là một trong những người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
- Năm 1921, cùng với một số người yêu nước cúa Angièri, Marốc, Tuyniđi. Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội Liên hiệp thuộc địa ở Pari để tập hợp tất cả những người dân thuộc địa sống trên đất Pháp. Cơ quan ngôn luận của Hội là báo Người cùng khổ do Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Người còn viết nhiều bài cho các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân ...và đặc biệt là cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp (1925).
- Tháng 6 - 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời nước Pháp sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế Nông dân (Tháng 10 - 1923). Người ở lại Liên Xô, vừa nghiên cứu, học tập, viết bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản Liên Xô, tạp chí Thư tín Quốc tế của Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V (1924), Nguyễn Ái Quốc trình bày lập trường quan điểm của mình về vị trí chiến lược của cách mạng các nước thuộc địa, về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa.
- Ngày 11 - 11 - 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu - Trung Quốc) để trực tiếp tuyên truyền, giáo dục lí luận, xây dựng tổ chức cách mạng giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam.