Câu 1. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Qua nhân vật Mị, hãy chứng minh nhận định trên.
Câu 2. Bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm :
“Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh ,
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay”.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Câu 1
A. Yêu cầu chung
- Người viết phải nắm vững tác phẩm (chủ yếu là phần trích giảng trong sách giáo khoa) để chỉ ra được những giá trị của tác phẩm Vợ chồng A Phủ về nội dung và nghệ thuật.
- Đây là loại để kết hợp phân tích và chứng minh. Vì vậy, người viết, thông qua việc phân tích nhân vật Mị để chứng minh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm (đặt nhân vật Mị trong liên hệ chừng mực với các nhân vật khác như A Sử, A Phủ,... để làm sáng tỏ vấn đề).
- Người viết có thể phân tích rồi chứng minh, nhưng tốt nhất là kết hợp vừa phân tích vừa chứng minh để tránh trùng lặp ý.
B. Phần nội dung
I - Đặt vấn đề
- Về tác giả:
Tô Hoài là nhà văn hiện đại xuất sắc. Ông thành công về nhiều thể loại (truyện, tiểu thuyết và kịch bản), nhiều đề tài, trong đó, có đề tài ông quan tâm sâu sắc : đề tài miền núi. Hiện thực cuộc sống và con người miền núi trong tác phẩm Tô Hoài hiện lên chân thật và sinh động, do có nhiều năm ông sống và gắn bó với nhân dân vùng cao. Tác phẩm của ông giàu chất hiện thực và có giá trị nhân đạo cao, nhìn chung trình độ nghệ thuật vững vàng.
- Về tác phẩm:
Vợ chồng A Phủ (viết 1953) là tác phẩm tiêu biểu của Tô Hoài được rút từ tập Truyện Tây Bắc (giải nhất giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955). Đây là kết quả đợt thâm nhập thực tê của Tô Hoài trong Chiến dịch Tây Bắc 1952 và quá trình chuyển biến tư tưởng và nghệ thuật của nhà văn. Tác phẩm đạt nhiều phẩm chất, trong đó, nổi bật nhất là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.
II - Giải quyết vấn đề
1. Phân tích nhân vật Mị
- Mị và bi kịch đớn đau : Từ một cô gái hồn nhiên, yêu đời, hiếu thảo.. MỊ bị bắt làm con dầu gạt nợ cho nhà thông lí Pá Tra. Khác vói chị Dậu, Chí Phèo, kiếp sống của Mị là kiếp sống của một nông nô miền núi. Mị là nạn nhân của ba nhà tù : nhà tù phong kiến (nhà thống lí Pá Tra), nhà tù thần quyển (ma xó), nhà tù lễ giáo giai cấp (thân phận đàn bà con gái chỉ là cái đuôi con ngựa của chồng). Mị sống mà như đang chết dần, suốt ngày làm quần quật, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” (ca dao: Thương thay thân phận con rùa, Lên đỉnh đội hạc xuống chừa đội bia).
- Mị và sự diễn biến tình cảm, ý thức:
Từ khổ đau đến chịu đựng vì bị đày đọa về thể xác và áp chế về tinh thần, Mị bị ràng buộc trong ý nghĩ: mình bị bố con Pá Tra “trình ma”, là người, nhà nó rồi thì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác ở đây thôi. Cán buồng của Mị lúc nào cũng tối, nhìn ra ô cửa vuông bằng bàn tay, chỉ thấy một màu nhờ nhờ trăng trắng “không rõ là sương hay nắng”. Nàng mất ý thức về sự sống, thậm chí, nàng không nghĩ đên cái chết nữa. Mị phó mặc cuộc sống cho định mệnh, không có ý thức về thời gian, không nhớ làm dâu nhà Pá Tra bao nhiêu năm. Với Mị, sự chuyển biến của thời khắc : sớm tối, ngày tháng không có ý nghĩa gì, không gợi cảm xúc gì, cuộc sống chỉ còn là một màn sương mờ đục, không dĩ vãng, hiện tại và tương lai.
- Sức sống tiềm tàng và sự hồi sinh kì diệu của Mị
+ Bước chuyển đầu tiên thể hiện sự trỗi dậy của Mị là lòng ham sống, là ý thức trở lại về sự sống, về thời gian, về khát vọng tinh thần (mùa xuân về, những đêm tình mùa xuán, tiếng sáo gọi bạn tình khiến Mị yêu đời, ham sống, Mị nhớ về ngày trước, Mị uống rượu,..,).
+ Mị hành động như con người tự do : càng bị đè nén, áp bức, sức sống trong con người càng mãnh liệt, dâng trào : “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Những sục sôi trong tâm trí đã bùng lên thành hành động : “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Có thể xem chi tiết này là hành động thức tỉnh, tự mình thắp sáng ngọn lửa đời mình để thoát khỏi những đem dài tăm tối triền miên... Nàng quấn lại tóc, rút cái váy hoa, sửa soạn đi chơi Tết... rồi nàng bị A sử trói vào cột.
+ Bị trói, Mị quên những đau đớn thể xác, nàng sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng và sự thật tàn bạo lạnh lùng. Và hành động cuối cùng, Mị cởi trói cho A Phủ là hành động có ý nghĩa bước ngoặt của đời nàng để cứu người và cứu mình.
2. Giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc
Đây là hai giá trị nổi bật của tác phẩm, chúng hòa quyện và bổ sung cho nhau, làm nên tư tưởng chủ đề của toàn truyện.
- Giá trị hiện thực:
Tác phẩm tố cáo chế độ phong kiến, chúa đất đã bóc lột con người dưới nhiều hình thức : cho vay nặng lãi, buộc người lao động nghèo khổ vào vòng nô lệ. Tác phẩm cũng tố cáo sự chà đạp lên tình yêu, hạnh phúc và phẩm giá con người, gắn con người vào vòng mê tín, thần quyền làm cho họ phải bất lực, cam chịu.
Cuộc đời của Mị (con dâu gạt nợ) và A Phủ (đứa ở gạt nợ) là cuộc đời của những kẻ nô lệ cho các thế lực phong kiến, lễ giáo, thần quyền ở vùng cao Tây Bắc. Những nhân chứng hùng hồn đó làm cho ta căm thù chế độ phong kiến tàn bạo và đặt vấn để phải gấp rút hủy bỏ nó.
- Giá trị nhân đạo:
Cùng với sự tố cáo là lòng xót thương, cảm thông vô hạn của Tô Hoài đối với nhân dân lao động miền núi, đặc biệt là người phụ nữ, những kiếp đời bi kịch đang chết dần, chết mòn vì đau khổ. Hai sự sống sôi nổi trẻ trung đang bị trói đứng trong nhà thống lí Pá Tra - đó là một hiện tượng trái với quy luật tự nhiên và do đó cũng trái với tinh thần nhân đạo chủ nghĩa. Bênh vực cho con người trở về với quy luật tự nhiên, đó là ý nghĩa nhân đạo của tác phẩm. Khai thác sức sống tiềm tàng trong con người Mị và hành động tự giải phóng khi cắt dây trói cho A Phủ rồi cùng với A Phủ trốn lên Phiềng Sa. Tô Hoài cũng ca ngợi chính sách nhân đạo của cách mạng đã giải phóng hàng triệu con người khỏi ách áp bức của thực dân, phong kiến.
Câu 2
A. Yêu cầu chung
- Thí sinh nắm vững kiểu đề bình giảng, chỉ ra cảm xúc và tâm trạng chung của Hoàng cầm khi sáng tác bài thơ. Khi làm bài, phải đặt đoạn thơ trong liên hệ chính thế tác phẩm. Từ đó, cảm nhận, bình giảng cái hay, cái đẹp trong ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu cũng như nét độc đáo của đoạn thơ.
B. Phần nội dung
I - Đặt vấn đề
- Hoàng Cầm là nhà thơ nổi tiếng của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Hồn thơ ông rộng mở, gắn bó với con người và quê hương, đất nước. Chất tài hoa đậm truyền thống văn hóa của quê hương Kinh Bắc đi vào thơ ông lung linh, thắm thiết.
Ben kia sông Đuống là bài thơ thành công và đặc sắc về để tài quê hương. Đoạn trích bình giảng là đoạn thơ tạo nên cảm xúc, định hướng cho những tình cảm lớn của toàn bài thơ. Đây là bức tranh toàn cảnh quê hương bên kia sông Đuống được ghi lại trong tình yêu tha thiết và niềm xót xa, căm giận. Bút pháp trữ tình, gợi cảm thấm đẫm trong từng câu thơ.
II - Giải quyết vấn đề
Bình giảng khổ thơ theo 3 đoạn ngắn,
1. Đoạn 1
Gợi cảm hứng từ 3 câu rất lạ. Theo Hoàng cầm, đó là âm vang huyền thoại, vang lên từ tiếng gọi thiết tha, một lời khuyên nhủ chân tình. Đại từ nhân xưng “em” ở đây (có thể thật, có thể phiếm chỉ) như đối tượng để tâm tình, chia sẻ. “Anh đưa em về sông Đuống” ngày xưa là một khát khao, hoài vọng của thuở còn yên bình, êm đẹp chưa có bóng dáng quân thù giày xéo (“Ngày xưa cát trắng phẳng lì”). Chỉ 3 câu mà cái “hồn” của sông Đuống, cái tình của con người hiện lên da diết, yêu thương.
2. Đoạn 2
Sống Đuống trở thành nhân vật trung tâm gợi lên bức tranh về quê hương sinh động (trôi đi, một dòng lấp lánh). Nhịp thơ được ngắt thành 2 dòng, 4 từ gây ấn tượng hiền hòa, chậm rãi nhưng bất diệt và bất tận bồi con nước luôn “trôi đi”, dù nắng trời tạo thành sức phản chiếu đẹp lung linh, lấp lánh.
Đến đây tác giả thổi vào con sông Đuống một tư thế đẹp “nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”. Con sông trở thành sự sống, được nhân hóa, nó là con sông tâm tưởng. Cái mềm mại, trữ tình, giờ đây, tác giả gắn cho nó thêm một “tâm trạng” và gắn cho lồng người một cảm xúc bâng khuâng.
3. Đoạn 3
- Bốn câu còn lại, vẫn lấy dòng sông Đuống làm dòng chuẩn để nhìn ra hai bờ cây trái tốt tươi. “Bãi mía, bờ dâu” đi với từ láy xanh xanh, “ngô khoai” đi với từ láy biêng biếc gợi sự trù phú của đất đai và sự hát ngát của không gian. Hai câu thơ vừa mang giá trị tạo hình vừa mang ý nghĩa biểu cảm.,
- Hai câu tiếp là nỗi niềm hoài niệm rưng rưng của tác giả. Quê hương giàu đẹp, trù phú giờ không còn nữa. Sự nhớ thương, tiếc nuối, bàng hoàng, đứng bên này sông mà lòng quặn thắt. Từ “sao” được lặp lại hai lần thể hiện dược tâm trạng ngờ ngàng, nuối tiếc khiến cho nỗi xót xa có hình có khối như một bộ phận của cơ thể bị rụng lìa.
III. Kết thúc vấn đề
- 10 dòng thơ của đoạn mở đầu bài Bên kia sống Đuống là toàn cảnh của quê hương được gợi về trong niềm xót xa, nhớ tiếc, bâng khuâng của thi nhân.
- Sự đan xen, hòa lẫn giữa các tình cảm và trạng thái nói trên đã tạo nên sự lay động về nghệ thuật cũng như sức truyền cảm mạnh mẽ của đoạn thơ (và cả bài thơ).