- Đấu tranh về chính trị: Địch đánh ta về chính trị, ta phải chống lại chúng về chính trị. Ta vạch trần âm mưu chính trị “dùng người Việt đánh người Việt” của chúng. Ta củng cố khối đoàn kết toàn dân. Ngày 3/3/1951 ta thống nhất Việt Minh và Hội Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt và thành lập khối liên minh Việt – Miên – Lào. Để tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng, tháng 2/1951, Đảng họp Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II, quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Đại hội cũng chính thức thông qua đường lối để đưa kháng chiến đến thắng lợi.
- Đấu tranh về kinh tế - tài chính: Địch đánh ta về kinh tế, ta phải chống lại chúng về kinh tế.
- Mở đầu kháng chiến toàn quốc, ta di chuyển các cơ sở công nghiệp ra vùng tự do và các căn cứ, thực hiện “Tiêu thổ kháng chiến”, “Vườn không nhà trống”.
- Ta ra sức phá hoại kinh tế địch, chống lại âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của chúng; đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế có khả năng tự cấp, tự túc cho ta.
- Chính phủ để ra nhiều chính sách kinh tế - tài chính nhằm phát triển sản xuất, huy động sự đóng góp của nhân dân cho kháng chiến (chính sách thuế, ngân hàng, quỹ tín dụng mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã mua bán...) đồng thời phục vụ quốc kế, dân sinh.
- Ta lấy sản xuất nông nghiệp làm chính nhằm đảm bảo cung cấp lương thực cho nhân dân, cho cán bộ ở hậu phương, cho bộ đội ở tiền tuyến.
- Ta lập các công binh xưởng trong rừng sâu theo quy mô nhỏ, phân tán, chú trọng công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng. Thủ công nghiệp được coi trọng nhằn phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân và quân đội.
- Đấu tranh về văn hoá, giáo dục: Địch đánh ta về văn hoá, ta phải vạch trần tính chất nô dịch trong văn hoá của địch là xây dựng nền văn hoá của ta. Ta tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Bình dân học vụ”, xoá mù chữ, mở rộng phong trào “Bổ túc văn hoá” để nâng cao trình độ cho nhân dân, cán bộ và bộ đội.
- Ta mở trường phổ thông các cấp, chủ yếu là bậc tiểu học, giáo dục thực hiện theo ba phương châm là: phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh, phục vụ sản xuất.
- Ta cũng tranh thủ mở một số trường trung học chuyên nghiệp và bước đầu mở trường đại học để đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật cho trước mắt cũng như cho xây dựng đất nước sau này. Năm 1948 ta mở Đại hội văn hoá toàn quốc. Đại hội này khẳng định lại 3 tính chất của văn hoá Việt Nam là “Dân tộc, khoa học và đại chúng”. Ta vận động nhân dân xây dựng nếp sống mới, vận động thực hiện “ba sạch”.
+ Tháng 7/1950, Chính phủ đề ra chủ trương cải cách giáo dục lần thứ nhất, thay hệ thống giáo dục cũ bằng hệ thống giáo dục 9 năm, xoá bỏ những tàn dư của nền giáo dục thực dân phong kiến, hướng giáo dục phục vụ nhiệm vụ kháng chiến - kiến quốc và đặt nền móng cho nền giáo dục dân chủ nhân dân của ta.
- Đấu tranh về quân sự: Địch đánh ta về quân sự. ta phải chống lại địch về quân sự.
+ Mở đầu kháng chiến toàn quốc chống Pháp (19/12/1946), quân dân ta đã chủ động tiến công Pháp ở thủ đô Hà Nội và các đô thị khác ở phía Bắc vĩ tuyến 16 (từ Đà Nẵng trở ra Bắc) nhằm tiêu hao, giam chân địch, phá âm mưu “đánh úp” của chúng, chuyển đất nước sang thời chiến, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài, toàn dân, toàn diện.
+ Chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947 là chiến dịch phản công lớn đầu tiên giành thắng lợi của ta.
+ Trong nhũng năm 1948 - 1949, Đảng ta chủ trương phân tán một bộ phận bộ đội chủ lực thành những “đại đội độc lập”, đi sâu vào vùng địch tạm chiến giúp các địa phương xây dựng cơ sở kháng chiến, tổ chức lực lượng vũ trang, hình thành ra “lực lượng vũ trang ba thứ quân”, phát động chiến tranh du kích, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta.
+ Thu - Đông 1950, tạ mở chiến dịch Biên giới, là chiến dịch tiến công lớn đầu tiên của ta giành thắng lợi.
+ Từ sau chiến thắng Biên giới Thu - Đông 1950, quân dân ta chủ động mở liên tiếp những chiến dịch tấn công vào quân địch ở trung du và đồng bằng, như chiến dịch Trung du (11951), chiến dịch Đường số 18 (3/1951), chiến dịch Hà – Nam - Ninh (5/1951). Tiếp đó là chiến dịch Hòa Bình (Đông Xuân 1951 - 1952), chiến dịch Tây Bắc (Thu - Đông 1952), chiến dịch Thượng Lào (Xuân Hè 1953).
+ Cuối cùng, ta mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (từ 13/3 đến 7/5/1954) giành thắng lợi hoàn toàn.
- Đấu tranh về ngoại giao: Địch đánh ta về ngoại giao, ta phải đấu tranh ngoại giao với địch.
+ Từ đầu năm 1950, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lần lượt được chính phủ Trung Quốc (18/1/1950), Liên Xô (31/1/1950) và các nước xã hội chủ nghĩa khác lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta, làm tăng uy tín của ta trên trường quốc tế.
+Tháng 3/1951 ta mở Hội nghị cấp cao của nhân dân 3 nước Đông Dương, thành lập khối liên minh Việt – Miên - Lào (1/3/1951).
+ Cuối cùng, khi ta đã có thắng lợi lớn về quân sự, chính trị, chính nghĩa của ta đã tương đối sáng tỏ và ý chí xâm lược của địch đã bắt đầu lung lay, ta mới tranh thủ mở Hội nghị quốc tế tại Giơnevơ đi đến ký kết hiệp định Giơnevơ ngày 21/7/1954 để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Nhờ kháng chiến toàn diện, ta đã đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi, xây dựng được chế độ dân chủ nhân dân, tạo tiền đề đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội.