a. Những thắng lợi về quân sự:
- Thắng lợi ở Hà Nội (1946): Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, quân và dân cả nước đã đứng lên kháng chiến. Tiêu biểu nhất là cuộc kháng chiến của quân và dân Hà Nội.
Tuy lực lượng chênh lệch rõ rệt nhưng với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” quân và dân Hà Nội đã anh dũng chiến đấu chống Pháp trong 60 ngày đêm.
Kết quả: Ta đã tiêu diệt và bắt sống trên 500 tên giặc, phá huỷ trên 30 xe cơ giới, bước đầu làm phá sản chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp.
Thắng lợi của nhân dân Hà Nội không những giúp cho ta bảo toàn lực lượng mà còn giúp cho các cơ quan của Đảng và Chính phủ rút lui an toàn khỏi Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc để chỉ đạo cuộc kháng chiến lâu dài. Đặc biệt, thắng lợi này đã giúp Đảng ta rút ra một nhận định là: chúng ta đã có đủ khả năng và điều kiện để đánh thắng Pháp.
- Chiến thắng Việt Bắc (Thu - Đông 1947).
Sau khi thất bại ở mặt trận Hà Nội, Pháp rất cay cú và quyết định mở cuộc tấn công quy mô lớn lên chiến khu Việt Bắc nhằm ba mục đích là: tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta, tiêu diệt cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến, phá tan căn cứ Việt Bắc.
Về phía ta, Đảng quyết định phải đánh bại cuộc tấn công của địch lên Việt Bắc nhằm xoay chuyển cục diện chiến tranh có lợi cho ta.
Kết quả: Sau hơn 2 tháng chiến dấu (7/10 - 19/12/1947), quân và dân ta đã tiêu diệt và bắt sống 6.300 tên địch, bắn rơi 16 máy bay, đánh chìm 11 ca nô, thu nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch. Chiến thắng này làm phá sản toàn bộ chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta. Từ nay ta đã nắm được quyền chủ động về chiến thuật.
- Chiến thắng Biên giới (Thu - Đông 1950).
Bước sang năm 1950, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến chuyển mới thuận lợi cho ta, cho phép ta mở một chiến dịch lớn nhằm xoay chuyển hẳn cục diện chiến tranh. Vì thế, Đảng ta đã quyết định mở chiến dịch Biên giới (Thu - Đông 1950) nhằm ba mục đích là: Tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch; Giải phóng thêm đất, thêm dân, củng cố và mở rộng thêm căn cứ địa Việt Bắc; Khai thông biên giới Việt - Trung, nối liền cách mạng nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Kết quả: Sau hơn 1 tháng chiến đấu (từ 16/9 đến 17/10/1950) chiến dịch kết thúc và thắng lợi thuộc về ta. Ta đã tiêu diệt và bắt sống trên 11.500 tên địch, thu trên 3.000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh, khai thông tuyến biên giới Việt - Trung dài 750 km, giải phóng thêm được 4.000 km2 đất đai và 35 vạn dân. Chiến thắng Biên giới được coi là bước ngoặt của cuộc kháng chiến. Từ nay ta đã nắm được quyền chủ động về chiến lược ở chiến trường chính là đồng bằng Bắc Bộ.
- Chiến thắng Biện Biên Phủ:
Sau 8 năm tiến hành cuộc chiến tranh ở Đông Dương, thực dân Pháp đã không đạt được mục đích quân sự và chính trị. Nhưng với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, tháng 5/1953, chúng cử đại tướng Nava sang làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương.
Vừa đặt chân đến Sài Gòn, tên tướng này đã vạch ra một kế hoạch gồm 2 bước:
+ Bước 1: Thu - Đông 1953 và Xuân Hè 1954, phòng ngự miền Bắc, tấn công miền Nam.
+ Bước 2: Thu - Đông 1954 đến đầu 1955, chúng sẽ mở cuộc tấn công tổng lực ở miền Bắc và kết thúc chiến tranh. Kế hoạch Nava dự định sẽ bình định xong Việt Nam trong vòng 18 tháng.
Về phía ta, phát huy quyền làm chủ chiến lược vừa giành được, ta liên tiếp mở các chiến dịch lớn như: Tây Bắc, Trung Lào, Thượng Lào, Tây Nguyên để buộc địch phải bị động và phân tán lực lượng đối phó với ta. Kế hoạch Nava có nguy cơ bị phá sản. Trước tình hình đó, thực dân Pháp buộc phải xây dựng ở Điện Biên Phủ một căn cứ quân sự lớn. Điện Biên Phủ trở thành khâu chính trong kế hoạch của Nava. Với 16.200 quân tinh nhuệ nhất ở Đông Dương, cùng những vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, Mỹ và Pháp kiêu căng tuyên bố “Điện Biên Phủ là pháo đài bất khả xâm phạm”. Chúng ngang nhiên thách thức quân ta lên Tây Bắc giao chiến. Để trả lời quân hiếu chiến Pháp, Mỹ và sau khi đã phân tán được địch, Đảng ta đã quyết định chọn Điện Biên Phủ để mở trận quyết chiến chiến lược nhằm đánh bại ý chí xâm lược của địch, kết thúc chiến tranh.
Thực hiện khẩu lệnh: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến dịch Điện Biên Phủ”, sau 55 ngày đêm (từ 13/3 đến 7/5/1945) quân và dân ta đã hoàn toàn giành thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Ta tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên giặc, bắn rơi 62 máy bay, thu nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch. Đây là thắng lợi oanh liệt nhất trong lịch sử chống Pháp của nhân dân ta. Chiến thắng này góp phần quyết định vào việc buộc địch ký Hiệp định Giơnevơ để kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
b. Những thắng lợi về chính trị:
- Từ 1948 đến 1950 ta đã tiến hành củng cố chính quyền dân chủ nhân dân.
- Tháng 2/1951, Đảng tiến hành Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II tại Tuyên Quang. Đại hội đã chính thức thông qua đường lối để đưa kháng chiến đến thắng lợi, đã quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai từ ngày 3/3/1951 lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Đại hội đã bầu Hồ Chủ tịch làm Chủ tịch Đảng và đồng chí Trường Chinh được bầu lại làm Tổng bí thư Đảng. Cùng ngày 3/3/1951, ta hợp nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thành lập Mặt trận Liên Việt và thành lập khối liên minh Việt - Miên - Lào.
Cũng vào năm 1951, ta đã lập tờ báo Nhân Dân là cơ quan tuyên truyền ngôn luận chính thức của Đảng ta.
- Năm 1952, ta mở Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc và đã lựa chọn tuyên dương được 7 anh hùng.
c. Những thắng lợi về ngoại giao:
- Năm 1949 cách mạng Trung Quốc thành công. Từ năm 1950 hệ thống xã hội chủ nghĩa được hình thành. Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã lần lượt đặt quan hệ ngoại giao với ta, ủng hộ rất tích cực cuộc kháng chiến của ta.
- Từ ngày 8/5 đến 21/7/1954 ta mở Hội nghị Giơnevơ, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954) để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.