- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp ba nhân tố: Chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước, trong đó hai nhân tố có tính chất phổ biến là chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân. Việt Nam là một nước thuộc địa, phong trào công nhân yếu, song nhờ có phong trào yêu nước mà chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn kết hợp được với phong trào công nhân. Đây là nét đặc thù của Việt Nam.
+ Tại sao phải thành lập Đảng Cộng ở Việt Nam?
Muốn giải quyết được 2 mâu thuẫn của xã hội Việt Nam cần có một chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
- Dưới chế độ thực dân phong kiến, xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản (mâu thuẫn dán tộc và mâu thuẫn giai cấp). Hai mâu thuẫn ấy vừa là nguồn góc. vừa là động lực làm nảy sinh và thúc đẩy mọi phong trào yêu nước chống thực dân, phong kiến ở nước ta.
- Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta nổ ra ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân xâm lược và đặt ách thống trị suốt nửa sau thế kỷ XIX, đầu thế kỷ thứ XX. Mặc dù các phong trào diễn ra liên tục, sôi nổi, rộng lớn. có lúc quyết liệt, song cuối cùng đều thất bại vì khủng hoảng về đường lối. Bấy nhiêu lâu chưa có Đảng, cách mạng Việt Nam vẫn chìm đắm trong vòng đen tối như đêm trường không đường ra.
- Muốn giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam, cần phải có một chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
+ Quá trình vận động làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước dẫn tới thành lập Đảng ?
Quá trình này diễn ra qua 3 bước nhỏ:
- Ba nhân tố kết hợp ở một con Người - Nguyễn Ái Quốc: Giữa lúc Cách mạng Việt Nam đang bế tắc về đường lối thì Nguyễn Ái Quốc xuất hiện. Từ một người yêu nước, Người đã ra đi tìm đường cứu nước (1911). Từ 1911 đến 1917. Người đi qua nhiêu nước, làm nhiều nghề để kiếm sống (bồi bếp, khuân vác, v.v...) nhưng trong lòng vẫn luôn luôn nung nấu một hoài bão, làm sao tìm được con đường cửu nước, cứu dân. Quá trình này đồng thời cũng biến Người thành người công nhân lao động. Cuối cùng Người đã gặp Luận cương về vấn để dân tộc và thuộc địa của Lênin (7/1920). Luận cương đã chì cho người thấy con đường giải phóng dân tộc mình. Từ sau Đại hội Tua (12/1920), Người đã trở thành đảng viên cộng sản. Người là một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Như vậy, tính đến năm 1920, ba nhân tố là chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và chủ nghĩa yêu nước đã kết hợp với nhau ở Việt Nam nhưng mới chỉ biểu hiện ở Nguyễn Ái Quốc, con người tiêu biểu cho dân tộc, giai cấp, mở đầu cho bước ngoặt mới trong cách mạng Việt Nam.
b. Ba nhân tố kết hợp biểu hiện ở ba tổ chức cộng sản tiền thân của Đảng (1929):
Từ một hạt giống đó Nguyễn Ái Quốc, sự kết hợp của ba nhân tố đã được mở rộng dần. Cùng với phong trào yêu nước, phong trào công nhân (điều kiện trong nước) ngày càng phát triển, tính đến những năm 1925 - 1926 chiếm một vị trí quan trọng trong phong trào yêu nước nói chung, song giai cấp công nhân vẫn chưa trở thành người lãnh đạo cách mạng vì thiếu một lý luận cách mạng tiên tiến soi đường. Lý luận ấy trong thời đại ngày nay chỉ có thể là chủ nghĩa Mác - Lênin. Nguyễn Ái Quốc đã có công truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam trên cơ sở phong trào công nhân.
Từ năm 1925 trở đi, phong trào công nhân Việt Nam được những điều kiện mới (bên ngoài) tác động đến. Đó là:
+ Ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga dội tới Việt Nam ngày một mạnh hơn.
+ Quốc tê Cộng sản được thành lập (1919) và nhiều tổ chức quần chúng của quốc tế, như Quốc tê nông dân, Quốc tế thanh niên, Quốc tế phụ nữ v.v...
+ Đảng Cộng sản Pháp thành lập (12/1920).
+ Đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời (7/1921) v.v...
Hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và những người cách mạng khác trong việc viết sách báo, cải tổ Tâm Tâm xã, thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6/1925), mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, tổ chức phong trào vô sản hoá v.v... đã tạo điều kiện gián tiếp và trực tiếp cho chủ nghĩa Mác - Lênin ngày càng được truyền bá sâu rộng vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam.
Phong trào công nhân Việt Nam. do tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, đã có sự chuyển biến dần dần về chất, dẫn tới sự “lột xác” của các tổ chức “Thanh niên” và “Tân Việt”, làm xuất hiện ba tổ chức cộng sản tiền thân của Đảng. Đó là Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929) ở Bắc Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng (7/1929) ở Nam Kỳ và Đông Dương cộng sản liên đoàn (9/1929) ỏ Trung Kỳ.
Như vậy, tới cuối năm 1929, sự kết hợp của ba nhản tô (chu nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhản và phong trào yêu nước ơ Việt Nam) được thể hiện bằng sự ra đời của ba tổ chức tiến thân của Đảng.
c. Ba tổ chức tiền thân hợp nhất thành một chính Đảng (3/2/1930).
+ Sự chia rẽ của ba tổ chức cộng sản làm yếu phong trào đấu tranh.
+ Vấn đề được đặt ra ngay sau khi ba tổ chức cộng sản ra đời (cuối 1929): có nên hợp nhất ba tổ chức này làm một hay cứ để hoạt động riêng rẽ.
+ Xét cả về mặt khách quan và chủ quan (tình hình thế giới, trong nước và cũng như nội bộ của ba tổ chức), việc hợp nhất ba tổ chức cộng sản là hợp với yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Được sự ủy nhiệm của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì một hội nghị hợp nhất Đảng tại Cửu Long thuộc Hương cảng (Trung Quốc). Hội nghị hợp nhất đã thành công. Ngày 3/2/1930, Đảng đã ra đời lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản có ý nghĩa như một đại hội thành lập Đảng và các văn kiện do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được Hội nghị thông qua có giá trị như một Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.