Về vấn đề này cần lưu ý 3 khía cạnh;
- Tìm đường cứu nước.
- Chuẩn bị tư tưởng chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
- Thành lập Đảng (3/2/1930).
1. Tìm đường cứu nước:
Dưới chế độ thực dân phong kiến, xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản nhất (mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp). Hai mâu thuẫn ấy vừa là nguồn gốc, vừa là động lực làm nảy sinh và thúc đây mọi phong trào yêu nước chống thực dân phong kiến ở nước ta.
- Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta nổ ra ngay từ khi chúng dặt chân đến xâm lược (1858), kéo dài suốt nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, song tất cả đểu thất bại chỉ vì thiếu một đường lối cách mạng đúng đắn và thiếu một giai cấp lãnh đạo tiên phong. Muốn giải quyết được hai mâu thuẫn cơ bản ấy của xã hội Việt Nam, cần phải có một chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
- Như đáp ứng được yêu cầu của lịch sử, chính lúc ấy Nguyễn Ai Quốc đã xuất hiện. Từ một người yêu nước, Người đã ra đi tìm đường cứu nước (1911). Sau nhiều năm khổ công tìm kiếm, Người đã gặp bản “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Đề cương chỉ cho Người thấy con đường để giải phóng dân tộc mình. Từ đó người quyết định đi theo Lênin, đi theo Quốc tế III. Tại Đại hội Tua (12/1920), Đại hội của Đảng Xã hội Pháp - Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Người chọn con đường cách mạng vô sản trong đấu tranh giải phóng dân tộc, vì Người khẳng định rằng “trên thế giới bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”... và “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Như vậy, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường đúng đắn nhất để cứu dân tộc.
2. Chuẩn bị cho việc thành lập Đảng:
Từ sau khi tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người cộng sản (1920), Nguyễn Ái Quốc vừa hăng say hoạt động cách mạng, vừa học tập nghiên cứu và tìm cách truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị thành lập một chính đang ở Việt Nam đó là Đảng Cộng sản.
Thời kỳ ở Pháp (1920 - 1923):
+ Người tích cực hoạt động trong phong trào công nhân Pháp, tranh thủ sự ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp, giai cấp vô sản và nhân dân Pháp với cách mạng Việt Nam.
+ Sáng lập các tổ chức cách mạng như Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp (1921), Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp.
+ Viết nhiều sách báo để tuyên truyền vận động cách mạng.
- Thời kỳ ở Liên Xô (1923 - 1924):
+ Dự nhiều hội nghị Quốc tế quan trọng như Quốc tế nông dân (10/1923), Quốc tế thanh niên, Quốc tế phụ nữ v.v... và đặc biệt là dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII (7/1924). Tại đây. Người đã trình bày quan điểm của mình về vị trí chiến lược cách mạng ở các nước thuộc địa, mối quan hệ giữa đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản à chính quốc... Ngươi không chỉ nắm vững những luận điểm cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc mà còn vận dụng sáng tạo vào cuộc đấu tranh ở các nước thuộc địa và truyền bá vào Việt Nam.
+ Người hoạt động trong Quốc tế Cộng sản và viết nhiều bài báo để tuyên truyền vận động cách mạng.
- Thời kỳ ở Trung Quốc (1924 - 1927):
Tháng 11/1924 Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về tới Quảng Châu (Trung Quốc) để tập hợp những người yêu nước của Việt Nam truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin cho họ. Việc đầu tiên là Người tìm hiểu các tổ chức cách mang của Việt Nam ở Trung Quốc, chủ yếu là Tâm Tâm xã, một tổ chức yêu nước hoạt động hăng say nhưng thiếu tôn chỉ mục đích rõ ràng. Người cải tổ Tâm Tâm xã thành “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên”, có hạt nhân là Cộng sản Đoàn (6/1925), hướng tổ chức này đi theo con đường cách mạng vô sản. Người lại sáng lập báo “Thanh niên” (1925), những bài của báo có sức hấp dẫn lớn đối với thanh niên ta lúc bấy giờ. Cùng với nhiều nhà cách mạng các nước phương Đông, Người tham gia sống lập “ Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông” để xây dựng tình đoàn kết giữa cách mạng các nước trong khu vực.
Tại Quảng Châu, Người viết cuốn “Đường kách mệnh” và mở nhiều lớp huấn luyện ngắn ngày (1925 - 1927) để đào tạo cán bộ. Nhiều đảng viên của Đảng Tân Việt ở trong nước cũng tham dự lớp huấn luyện. Nhờ vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, Người đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ đông đảo, bước đầu hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin. Đào tạo xong, Người đưa họ về nước, tham gia phong trào vô sản hoá (mạnh nhất vào những năm 1928 - 1929). Qua phong trào này chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá mạnh vào trong nước, kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước làm cho các phong trào này phát triển sôi nổi hẳn lên. Phong trào lên cao đòi hỏi phải thành lập một đảng cộng sản mới đủ sức lãnh đạo. Từ đó dẫn đến phá vỡ các tổ chức “Thanh niên” và “Tân Việt” để thành lập 3 tổ chức cộng sản tiền thân của Đảng. Đó là Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (7/1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (9/1929).
Nguyễn Ái Quốc có công lao lớn trong việc chuẩn bị tư tưởng chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
3 Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cuối năm 1929, ở Việt Nam cùng một lúc có ba tổ chức cộng sản hoạt động, tình hình đó làm cho quần chúng không biết đi theo sự lãnh đạo của tổ chức nào. Tình hình khách quan và chủ quan đểu đòi hỏi các tổ chức phải mau hợp nhất.
Được sự ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì một hội nghị gồm đại biểu các tổ chức cộng sản trong nước để bàn về việc hợp nhất Đảng (từ ngày 3 đến 7/2/1932) tại Cửu Long, thuộc Hương cảng (Hồng Kông, Trung Quốc). Trong hội nghị, mọi vấn để cơ bản đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng đều được các đại biểu nhất trí tán thành, chỉ riêng việc đặt tên đảng là gay go hơn cả. Nguyễn Ái Quốc phân tích tình hình, phê phán những nhận thức hẹp hòi và chỉ ra yêu cầu phải hợp nhất. Việc hợp nhất Đảng còn có thuận lợi, vì cả ba tổ chức cộng sản cùng chống một kẻ thù, cùng chung một mục đích cách mạng, cùng theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Song đặc biệt là nhờ những lý lẽ sắc bén và uy tín cao của Nguyễn Ái Quốc làm cho các đại biểu sớm nhận ra lẽ phải và hội nghị hợp nhất đã thành công. Ngày 3/2/1930, Đảng đã ra đời. lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất được xem như Đại hội thành lập Đảng.
- Hội nghị này còn thảo luận và thông qua một số văn kiện quan trọng do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo gồm có: “Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tất”, “Điều lệ”, “Chương trình hành động vắn tắt”. Các văn kiện trên vạch ra những nét cơ bản nhất về đường lối chiến lược và sách lược cho cách mạng Việt Nam. Có thể xem đây là cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
- Rút ra nhận xét: Đánh giá một nhân vật lịch sử không có nghĩa là đòi hỏi xem người ấy có công lao gì đối với chúng ta ngày nay. Trái lại cần phải xem người ấy có công lao gì so với tổ tiên của họ. Ở đây hơn hẳn cha anh của mình. Nguyễn Ái Quốc đã vượt lên những hạn chế của lịch sử để đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đem chủ nghĩa Mác - Lênin truyền bá vào nước ta và sáng lập ra Đảng ta. Việc thành lập Đảng là sự nghiệp của quần chúng nhưng Nguyễn Ái Quốc là người có công to lớn nhất.