Câu 1. Trong truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng, Nguyễn Minh Châu đã để cho nhân vật Lăm ngạc nhiên và bâng khuâng tự hỏi :
“Trong tâm hồn người con gái nhỏ bé, tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy, bao nhiêu bom đạn giội xuống cũng không hề đứt, không thể nào tàn phá nổi ư ?”.
(Văn học 12, tập một, Nxb Giáo dục, 2001, tr. 246)
Nhằm lí giải trạng thái cảm xúc đó của Lãm, anh (chị) hãy :
1. Kể tóm tắt câu chuyện tình yêu đậm màu sắc lí tưởng giữa hai nhân vật Lãm và Nguyệt.
2. Phân tích vẻ đẹp tâm hồn nhân vật Nguyệt được bộc lộ trong đêm trăng đi nhờ xe của Lãm.
3. Chỉ ra sự thống nhất giữa cái nhìn của nhân vật Lãm với cái nhìn của nhà văn về những điều kì diệu trong đời sống tinh thần con người Việt Nam thời chống Mĩ,
Câu 2. Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tràng giang của Huy Cận :
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
(Văn học 11, tập một, Nxb Giáo dục, 2001, tr.143)
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Câu 1
1. Phần giới thiệu chung về tác phẩm.
Mảnh trăng cuối rừng là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu trong những năm chống đế quốc Mĩ, đồng thời cũng là tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài chiến tranh cách mạng của văn học Việt Nam trước 1975, Truyện ngắn mang một vẻ đẹp lãng mạn thơ mộng, trong sáng khá đặc trưng cho văn học một thời. Nó đã được chọn in trong tập Những vùng trời khác nhau (1970) của tác giả.
2. Phần trả lời các câu hỏi nhỏ
1. Kể tóm tắt câu chuyện tình yêu giữa Lãm và Nguyệt
Cần nêu được những cụm tình tiết chính như sau :
- Lãm là chiến sĩ lái xe và Nguyệt là công nhân giao thông làm việc ở ngầm Đá Xanh. Tuy chưa hề gặp mặt nhau và chưa gửi cho nhau bức thư nào nhưng giữa hai người đã có sự ước hẹn ngầm. Họ hoàn toàn tin cậy vào sự vun đắp của người thân và tập thể, đặc biệt, họ rất ngưỡng mộ những phẩm chất tốt đẹp của nhau do mọi người kể cho biết.
- Nhân một chuyên đi công tác, Lãm có ý định ghé thăm Nguyệt - người yêu chưa biết mặt. Trên đường, anh gặp một cô gái xin đi nhờ xe. Anh không thể ngờ cô gái ấy lại chính là Nguyệt “của mình” và cô gái ấy cũng không hề hay biết ngồi cạnh cô chính là người cô đang mong gặp. Qua một chặng đường trăng và một chặng đường bom lửa, Lãm đã kịp nhận ra những vẻ đẹp tâm hồn cao quý của người bạn đồng hành.
- Hai ngày sau đêm đáng nhớ ấy, Lãm tìm lên đơn vị của Nguyệt và được biết đích xác Nguyệt là cô gái đi nhờ xe hôm trước. Nhưng thật oái oăm, Nguyệt lúc đó lại không có mặt ở đơn vị. Họ như những kẻ đang chơi trò ú tim nhưng tình yêu của họ đã được thử thách. Từ đây, Lãm bắt đầu viết cho Nguyệt lá thư đầu tiên...
Chú ý. Nên phân biệt việc tóm tắt truyện ngắn với việc kể tóm tắt câu chuyện tình giữa Lãm và Nguyệt. Để không hạn định quá cụ thể phải tóm tắt trong bao nhiêu dòng, cũng không định lượng rạch ròi phải nêu được bao nhiêu tình tiết. Điều quan trọng là thí sinh phải làm nổi rõ mối liên hệ giữa các tình tiết được kể ra.
2. Phân tích vẻ đẹp tâm hồn Nguyệt bộc lộ trong đêm trăng đi nhờ xe của Lãm
- Nguyệt có vẻ đẹp giản dị và mát mẻ như sương núi tỏa ra từ nét mặt, lời nói và tấm thân mảnh dẻ. Tuy đây mới là hình thức bề ngoài nhưng hình thức ấy hé lộ cho ta biết một phẩm chất bên trong cao quý, đáng ngưỡng mộ.
- Nguyệt là một con người có bản lĩnh, giàu kinh nghiệm trong việc xử lí các tình huống phức tạp trên con đường trọng điểm đánh phá của máy bay Mĩ. Chính vì vậy mà cô đã có một thái độ tự tin, bình thản trong suốt hành trình.
- Nguyệt có tinh thần trách nhiệm rất cao. Cô thấy mình như có lỗi trước sự vất vả của người lái xe. Cô không bỏ Lãm một mình lúc Lãm cần sự giúp đỡ. Cách xử sự của cô đã chinh phục hoàn toàn niềm tin của Lãm.
- Nguyệt có lòng vị tha có đức quên mình. Khi máy bay địch ập tới ném bom, Nguyệt đã đẩy Lãm vào chỗ nấp an toàn còn mình thì đứng chắn phía ngoài. Điều đáng nói là Nguyệt đã sẵn sàng hi sinh vì một người vừa mới gặp, mới quen (Nguyệt không hề biết anh lái xe cho mình đi nhờ chính là người yêu của mình).
- Nguyệt luôn giản dị trong mọi lời nói, cử chỉ và cách xử sự. Cô luôn biết cách làm người khác yên lòng. Trong sự giản dị của Nguyệt ta thấy có cả lòng can đảm lẫn đức hi sinh. Khi bị thương, cô vẫn nói với Lãm : “Anh cứ yên tâm, vết thương chỉ sướt da thôi...”.
- Để làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn Nguyệt, tác giả luôn chủ ý nhấn mạnh sự tương đồng giữa Nguyệt và “trăng”. Tác giả củng khéo tạo ra những tình huống đặc biệt để Nguyệt có điều kiện bộc lộ trọn vẹn bản tính tự nhiên, đẹp đẽ của mình (tình huống hai người yêu nhau mà chẳng biết nhau, dù cùng ngồi trong một cabin ; tình huống máy bay địch ném bom,..)
3- Chỉ ra sự thống nhất giữa cái nhìn của nhân vật Lãm với cái nhìn của nhà văn về con người, tình yêu và cuộc sống
- Lãm có một cái nhìn đầy lãng mạn, trong sáng về tình yêu và cuộc sống. Thực ra, cái nhìn đó của Lãm cũng là cái nhìn của nhà văn được biểu hiện trong nghệ thuật. Có thể nói nhà văn đã hóa thân vào Lãm để phát biểu nhũng suy nghĩ và cảm nhận của mình.
- Sự ngạc nhiên của Lãm về Nguyệt cũng chính là sự ngạc nhiên sung sướng của tác giả về vẻ đẹp tiềm ẩn của con người Việt Nam giũa hồi thử thách khốc liệt, vẻ đẹp ấy chính là cái đích mà ông đang khám phá và mong muốn thể hiện trong suốt hành trình nghệ thuật của mình.
- Việc Lãm chỉ nhìn thấy ở Nguyệt những nét tươi tắn, rạng rỡ phản ánh thiên hướng biểu hiện nghệ thuật mang phong cách lãng mạn cách mạng của tác giả trong giai đoạn sáng tác trước 1975 : quan tâm tô đậm vẻ đẹp cao cả của nhũng con người, những sự việc được nhắc tới.
Câu 2
I - Giới thiệu chung về tác phẩm
- Tràng giang được in trong tập Lửa thiêng (1940), là tác phẩm rất nổi tiếng của Huy Cận trước Cách mạng, đồng thời cũng là một trong những bài thơ hay nhất của phong trào Thơ mới 1932-1945.
- Chính sông Hồng đã gợi hứng cho tác giả viết nên Tràng giang. Vì vậy, trong bài thơ đầy ắp những chi tiết tả cảnh chiếu về trên sông nước. Nhưng điểu quan trọng hơn hết là qua bài thơ, tác giả đã thể hiện được rất sâu sắc tâm trạng rợn ngợp, cô đơn của cá thể trước cuộc đời, trước vũ trụ - một tâm trạng phổ biến của thời Thơ mới.
II - Bình giảng
- Đây là khổ thứ hai của bài thơ. Tác giả đã thực sự dựng lên một không gian có đủ ba chiều (dài, rộng, sâu). Bức tranh thiên nhiên - cuộc đời có đặc điểm chung là ảm đạm, héo hắt. Mỗi nét tả đều mang tính chất của một ẩn đụ, biểu thị sâu sắc tâm tư của tác giả khi đứng ngắm những màu sắc hiu hắt của thế giới bên ngoài.
- Các từ láy lơ thơ, đìu hiu, chót vót được dùng rất đắt. Lơ thơ miêu tả những dáng cây nhỏ nhoi mọc thưa thớt trên cồn, đồng thời gợi lên sự xuất hiện đơn độc, lẻ loi, đượm chút ngơ ngác của những bãi cồn nổi giữa dòng “tràng giang” bát ngát. Đìu hiu gợi nhớ đến câu thơ “Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” (Chinh phụ ngâm), nói về hơi gió nhẹ đưa nỗi buồn lan tỏa khắp đất trời. Chót vót: trong tiếng việt, từ này thường được dùng vói từ cao ; viết sâu chót vót, tác giả không chỉ nhằm diễn tả độ cao vật lí của bầu trời mà còn nhằm biểu hiện cảm giác chới với, rợn ngợp của con người khi đối diện với cái hun hút, thăm thẳm của vũ trụ.
- Việc gợi nhắc đến “tiếng” của buổi chợ tàn đã làm nổi bật hơn nữa không khí cô liêu, tịch mịch của canh cũng như nỗi ngao ngán của nhà thơ trước vẻ tàn tạ của cuộc đời. “Tiếng làng xa vãn chợ chiều” thực chất chỉ lả tiếng vọng trong tâm tưởng của nhà thơ chứ không phải là “tiếng” thật có thể nghe được bằng thính giác (chú ý: có thể giải thích nghĩa của câu thơ thứ hai theo hướng khác, rằng đó là câu ghi nhận những âm thanh có thật của cuộc đời. Ở đây cần có cách lí giải uyển chuyển, bởi trong thơ, ranh giới giữa hư và thực thường khó xác định).
- Để làm rõ cảm giác cô đơn thấm thía, tác giả có ý thức sử dụng nhiều dấu phẩy ngắt câu thơ ra thành các cụm biệt lập. Cách thể hiện này đã giúp người đọc hiểu sâu hơn về một thực tại thiếu vắng những liên hệ. Các chuyển động được nhắc tới ở đây đi theo những phương ngược chiều. Hình ảnh trong hai câu cuối vừa có tính tả thực vừa mang đậm màu sắc tượng trưng, “Bến cô liêu” là biểu tượng của cá thể cô đơn trước cái không gian ba chiều mênh mông bát ngát, Các từ ngữ được chọn lọc kĩ như sông dài, trời lên đã vẽ trước mắt độc giả hai trục tung, hoành, biểu thị vừa sự lan tràn theo bề rộng, vừa sự dâng đầy theo chiều cao của nỗi sầu.