Câu 1. Hãy giải thích vì sao, trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam, hai chị em Liên, tuy đã buồn ngủ “ríu cả mắt”, vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm đi qua phố huyện ?
Câu 2. Ý nghĩa nghệ thuật của hình ảnh Mảnh tráng cuối rừng trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Minh Châu.
Câu 3. Bình giảng bài thơ Chiều tối của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Phiên âm :
Quyển điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không ;
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.
Dịch nghĩa :
Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ,
Chòm mây lẻ trôi lững lờ trên tầng không;
Thiêu nữ xóm núi xay ngô
Ngô xay vừa xong, lò than đã đỏ.
Dịch thơ:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng.
(Nam Trân dịch)
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Bài làm phải nêu được những ý chính sau đây:
Câu 1
1. Chi tiết hai chị em Liên, tuy buồn ngủ “ríu cả mắt” vẫn cố thức để đi xem chuyến tàu đêm đi qua phố huyện (nằm ở đoạn cuối của tác phẩm) không xuất hiện một cách ngẫu nhiên. Nó bắt nguồn từ những diễn biến tâm trạng của hai đứa trẻ này được diễn tả từ những đoạn văn trước đó. Vì thế muốn hiểu được chi tiết nói trên phải đặt nó trong quá trình phát triển của mạch truyện.
2. Hai đứa trẻ thuộc loại truyện ngắn trữ tình rất tiêu biểu của phong cách truyện ngắn Thạch Lam. Tác phẩm diễn tả tâm trạng của hai chị em Liên trước cảnh phố huyện lúc chiều tối, ấy là tâm trạng buồn chán trước cảnh vật và sinh hoạt của con người nơi một phố huyện nghèo, ở đây tất cả đều có vẻ tàn lụi : ngày tàn, chợ cũng tàn, phố xá vắng vẻ, bóng đêm trùm lên những cuộc đời nghèo khổ, quanh quẩn tù đọng, đơn điệu - những kiếp sống leo lét như ngọn đèn con sắp tắt nơi hàng nước chị Tí giữa đêm tối mênh mông.
Trong tâm trạng đó, chị em Liên, dù rất buồn ngủ, vẫn cố thức để xem chuyến tàu đêm đi qua, vì con tàu mang đến một thế giới khác hẳn : sáng trưng, giàu có, sang trọng, tươi vui, náo nhiệt. Nó giúp cho chị em Liên, trong chốc lát, được thoát khỏi môi trường buồn chán của phố huyện và được sống với một thế giới tưng bừng sáng sủa, dù chỉ bằng tưởng tượng. Thạch Lam đối lập hai thế giới: thế giới tĩnh lặng và đầy bóng tối của những người dân nghèo ở phố huyện vùng trung du, với thế giới đầy âm thanh và ánh sáng của toàn tàu - thế giới ước mơ, thế giới lí tưởng của họ. Thạch Lam đánh thức dậy trong những tâm hồn mệt mỏi, cam chịu những hi vọng về một tương lai tốt đẹp hơn. Đó là ý nghĩa nhân đạo của tác phẩm.
Câu 2
1. Mảnh trăng cuối rừng được viết theo cảm hứng lãng mạn. Hình ảnh “mảnh trăng cuối rừng” góp phần tạo nên vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn của thiên truyện. Nó đặc biệt góp phần làm lung linh thêm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Nguyệt. “Mảnh trăng cuối rừng” là biểu tượng vẻ đẹp của Nguyệt. Nguyệt là trăng, trăng và Nguyệt là hai hình ảnh sóng đôi, song hành và soi chiếu lẫn nhau trong quá trình diễn biến của thiên truyện.
2. Chính Nguyệt đã nhận ra ánh trăng trong khi Lãm tưởng là pháo sáng, Như thế là mảnh trăng cuối rừng đã “giới thiệu” Nguyệt với Lãm. Nhờ ánh trăng, anh bắt đầu phát hiện được tinh thần gan dạ, anh hùng của Nguyệt, đồng thời nhận ra vẻ đẹp rạng rỡ của cô khi ánh trăng chiếu vào “làm cho khuôn mặt tươi mát ngời lên và đẹp lạ thường”.
3. Trong cuộc hành trình dưới mặt đất, Lãm ngồi ngay cạnh Nguyệt mà không biết. Đến khi biết và vô cùng yêu quý cảm phục vẻ đẹp của cô (vẻ đẹp ngoại hình hài hoà với vẻ đẹp của một phẩm chất anh hùng) thì cô lại như “bay” đi mất. Trong khi đó, trên bầu trời, mảnh trăng cũng chập chờn ẩn biện “như chơi trò ú tim”. Tác phẩm lúc dầu mang tên là Mảnh trăng. Sau này khi được chọn vào Tuyển tập truyện ngắn mối có tên là Mảnh trăng cuối rừng. Ở đây là “mảnh trăng” chứ không phải là vầng trăng, bơi vầng trăng rằm thì gợi sự tròn đầy, rạng rỡ, không có gì khuất lấp phải tìm kiếm. Đây là mảnh trăng thượng tuần, lúc ẩn lúc hiện trên những khu rừng già đại ngàn, hơn nữa nó lại là “mảnh trăng” nơi cuối rừng, gần đấy mà lại như xa vời, gợi sự khao khát tìm kiếm. Trong con mắt của Lãm, Nguyệt cũng như “mảnh trăng cuối rừng” dường như là một cái gì cao đẹp tuyệt vời, vô cùng lí tưởng, khiến anh không sao với tới được.
Câu 3
1. Diễn tả tinh tế sự vận động của thời gian và cảnh vật nơi núi rừng lúc chiều tối
Hai câu đầu:
Khi ánh mặt trời chưa tắt hẳn, thì ở nơi núi rừng (không có chân trời) tất nhiên ánh sáng cuối cùng của một ngày tàn chỉ có thể nhận thấy trên đỉnh trời soi chiếu một cánh chim bay về tổ và một chòm mây lững thững trôi. Hình ảnh có tính ước lệ (của thơ ca cổ điển) nhưng được nhà thơ vận dụng một cách tự nhiên hợp với thực cảnh.
Hai câu sau:
Khi trời tối hẳn thì lò than nơi xóm núi rực sáng lên. Nguyên bản chữ Hán không có chữ tối mà nói được trời tối. Nghệ thuật tinh vi là ở đó.
2. Thể hiện diễn biến tâm trạng của nhà thơ
Hai câu đầu:
Cảnh buồn, lòng Bác cũng đượm buồn : cuối một ngày đường đầy ải, một mình trước cảnh chiểu tối, nơi núi rừng hoang vắng, lại phải xa đất nước khi cách mạng đang cần, Người dễ cảm thông với cánh chim mỏi mệt về rừng và chòm mây cô đơn (cô vân) bay chầm chậm trên trời.
Hai câu sau:
Hình ảnh lò than nhà ai bên xóm núi bỗng rực hồng lên chiếu sáng hình ảnh một cô gái xay ngô để chuẩn bị bữa chiều. Tâm trạng Bác chuyển sang vui - Người lấy cái vui nho nhỏ đời thường của người dân lao động, quên hẳn nỗi cực khổ rất lớn của mình : sau lưng là một ngày đường vất vả, trước mặt là một nhà lao lớn đầy muỗi rệp đang chờ đợi.
3. Ý nghĩa tư tưởng của bài thơ.
- Thể hiện tấm lòng đại nhân của Bác : cảnh ngộ riêng không có gì vui, vậy mà Người sẵn sàng chia vui vối niềm vui dù nhỏ của người dân lao động. Đấy là chủ nghĩa nhân đạo đạt đến mức độ quên mình (“Nâng niu tất cả chỉ quên mình” - Tố Hữu).
- Thể hiện chủ nghĩa lạc quan cách mạng rất mãnh liệt : mạch thơ, hình tượng thơ vận động hướng về sự sống và ánh sáng. Đây là một đặc trưng cơ bản của phong cách thơ Hồ Chí Minh.